Đa dạng thị trường xuất khẩu: Doanh nghiệp cần nhanh chân hơn nữa!

Nhờ chính sách hội nhập sâu rộng, Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế xuất khẩu hàng đầu khu vực, hàng hoá Việt Nam có mặt tại hơn 200 quốc gia trên thế giới.

Xuất khẩu là động lực tăng trưởng

Ba thập kỷ qua, xuất khẩu luôn là động lực tăng trưởng chủ yếu của kinh tế Việt Nam. Nhờ chính sách hội nhập sâu rộng, Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế định hướng xuất khẩu hàng đầu khu vực.

Doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm tại thị trường châu Âu. Ảnh: TT.

Doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm tại thị trường châu Âu. Ảnh: TT.

Theo Tổng  cục Hải quan, năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 786,3 tỷ USD, tăng hơn 15% so với năm trước. Hàng hóa Việt Nam đã có mặt tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, đóng góp lớn vào tạo việc làm, thu ngân sách và thu hút đầu tư nước ngoài.

Trong bức tranh đó, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và EU là năm thị trường lớn nhất. Riêng Hoa Kỳ chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu - tương đương 136,5 tỷ USD (USTR; Reuters). Các nhóm hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường này gồm: Điện thoại, linh kiện, đồ gỗ, dệt may, giày dép. Thành tích này khẳng định năng lực sản xuất - thương mại của Việt Nam và khả năng nắm bắt cơ hội trong chuỗi cung ứng toàn cầu đang dịch chuyển.

Tuy nhiên, sự tập trung cao độ vào một số thị trường lớn cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Khi gần 1/3 kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc vào một quốc gia, bất kỳ biến động nào trong nhu cầu tiêu dùng, lãi suất, hay tiêu chuẩn kỹ thuật đều có thể tác động nhanh và mạnh tới nền kinh tế Việt Nam. Thực tế, nhiều doanh nghiệp đã phải điều chỉnh sản xuất, thay đổi mẫu mã, thậm chí ngừng đơn hàng chỉ vì quy định nhập khẩu thay đổi.

Bên cạnh đó, tỉ lệ giá trị gia tăng nội địa trong nhiều ngành xuất khẩu còn thấp. Nhiều sản phẩm chủ lực vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu, dẫn đến phần giá trị thực tế mà Việt Nam giữ lại chưa tương xứng với quy mô thương mại.

Theo Bộ Công Thương, tỉ lệ nội địa hóa ở một số ngành chỉ đạt khoảng 30 - 40%. Khi các nước phát triển tăng cường tiêu chuẩn xanh và yêu cầu về phát thải carbon thấp, lợi thế “giá rẻ + tốc độ” của Việt Nam đang dần bị thu hẹp.

Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu sẽ mang lại cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam. Ảnh: TT.

Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu sẽ mang lại cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam. Ảnh: TT.

Nhanh chân để không bị bỏ lại phía sau

Để nâng cao khả năng chống chịu và phát triển bền vững, Việt Nam cần chuyển nhanh sang mô hình tăng trưởng cân bằng hơn, kết hợp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Để đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, Việt Nam đã tham gia 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), bao phủ hơn 60 nền kinh tế - một cơ hội chưa được khai thác hết. Doanh nghiệp cần tận dụng tối đa ưu đãi thuế quan và quy tắc xuất xứ từ các FTA như RCEP, CPTPP, EVFTA, UKVFTA để thâm nhập các thị trường tiềm năng ở Trung Đông, Nam Á, châu Phi và Nam Mỹ - nơi nhu cầu hàng tiêu dùng, nông sản và công nghiệp nhẹ đang tăng nhanh.

Cùng với đó, các thị trường trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương cần được khai thác sâu hơn. Sự gần gũi địa lý giúp giảm chi phí logistics, trong khi ASEAN và Đông Bắc Á là những khu vực có sức mua lớn, ổn định và ít rào cản hơn. Việc tăng cường quan hệ thương mại khu vực cũng giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào mạng lưới sản xuất nội khối RCEP, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu.

Thứ hai, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển công nghiệp hỗ trợ. Khi chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng khắt khe, chỉ những doanh nghiệp chủ động về công nghệ và nguyên liệu mới giữ được vị thế lâu dài. Nhà nước cần tiếp tục có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào R&D (nghiên cứu và phát triển), thiết kế, thương hiệu; hỗ trợ tín dụng cho công nghiệp hỗ trợ và khuyến khích FDI chuyển giao công nghệ. Việc hình thành cụm liên kết ngành, kết nối doanh nghiệp nội địa với tập đoàn toàn cầu là chìa khóa giúp Việt Nam chuyển từ “gia công” sang “sáng tạo”.

Thứ ba, củng cố năng lực phòng vệ thương mại và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế. Khi các yêu cầu về môi trường, lao động và truy xuất nguồn gốc ngày càng chặt chẽ, doanh nghiệp cần đầu tư sớm vào hệ thống quản lý dữ liệu, chứng nhận, và chuẩn hóa quy trình. Việc tuân thủ tiêu chuẩn ESG (môi trường - xã hội - quản trị) sẽ giúp doanh nghiệp Việt tiếp cận các đơn hàng giá trị cao và tránh rủi ro bị điều tra phòng vệ thương mại. Cơ quan quản lý cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cảnh báo sớm và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.

Có thể nói, kỳ tích xuất khẩu là niềm tự hào của Việt Nam, nhưng trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu tái cấu trúc, cạnh tranh thương mại và chuyển đổi xanh diễn ra ngày càng nhanh, tốc độ thích ứng của doanh nghiệp trở thành yếu tố sống còn. Việt Nam không thể chỉ dừng lại ở vai trò “công xưởng”, mà phải tiến tới vị thế của một nền kinh tế sáng tạo, chủ động và có khả năng tự cân bằng giữa thị trường trong và ngoài nước.

Doanh nghiệp Việt cần nhanh chân hơn trong việc nắm bắt xu hướng tiêu dùng xanh, chuyển đổi số và xây dựng thương hiệu. Chính phủ cũng cần đi trước một bước trong việc cung cấp thông tin, hỗ trợ thể chế, và thúc đẩy chính sách phát triển bền vững.

Đa dạng thị trường xuất khẩu và phát triển thị trường nội địa không phải hai hướng đi tách biệt, mà là hai trụ cột song hành - nền tảng cho một Việt Nam tự chủ, bền vững và vững vàng trước mọi biến động toàn cầu.

Nguyễn Cảnh Cường - Giảng viên chuyên gia Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội; nguyên Tham tán thương mại tại Pháp, Liên minh châu Âu (EU) và Vương Quốc Anh
Bình luận